Sau khi Hà Nội và nhiều nơi khởi nghĩa thắng lợi, ngày 25/8/1945, Hồ Chủ tịch từ chiến khu trở về căn gác 2 nhà số 48 phố Hàng Ngang để trực tiếp chỉ đạo phong trào cách mạng. Người đã chủ tọa phiên họp của Thường vụ Trung ương Đảng bàn về những công tác đối nội và đối ngoại, quyết định việc khẩn trương tổ chức Lễ ra mắt của Chính phủ lâm thời.
Từ sáng sớm ngày 2/9, hàng chục vạn người với hàng ngũ chỉnh tề, cờ hoa khoe sắc, áo quần tươi màu đỏ dồn về phía Ba Đình. Lễ đài bằng gỗ đơn sơ được dựng lên giữa Quảng đường Ba đình; các đội tự vệ vũ trang cùng những đơn vị Quân Giải phóng đội mũ ca lô, quân phục nghiêm trang, hàng ngũ thẳng tắp đứng trước lễ đài; hơn 50 vạn người đại diện cho mọi tầng lớp nhân dân, nét mặt hân hoan phấn khởi chờ đón giờ khai sinh của chế độ mới - nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Cùng giờ này, nhiều cuộc mít tinh lớn được tổ chức tại Huế, Sài Gòn và nhiều thành phố khác.
Đông đảo nhân dân tập trung tại quảng trường Ba Đình nghe Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập.
Đúng 14 giờ, Hồ Chủ tịch và các vị trong Chính phủ lâm thời ra lễ đài cùng hàng vạn người dân tại quảng trường Ba Đình. Hòa chung cùng không khí hoan náo lúc bấy giờ, bản nhạc Tiến quân ca hùng tráng vang lên như một biểu trưng của sự nghiệp cách mạng, góp phần cổ vũ động viện dân quân ta trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng Tổ Quốc. Giai điệu nhanh, dồn dập vừa hào hùng vừa thôi thúc như gợi nhớ tới những ngày tháng Tám lịch sử.
Tiến quân ca - bản quốc ca mang ý nghĩa hồn thiêng dân tộc
Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời - tức là Ủy ban Dân tộc giải phóng Trung ương đọc Bản Tuyên ngôn Độc Lập. Người khẳng định: “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc có phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!”. Người trịnh trọng tuyên bố trước toàn thế giới: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và thật sự đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đại biểu trên lễ đài Độc lập.
Lá cờ đỏ sao vàng tung bay như mở đầu cho kỷ nguyên độc lập, thống nhất của dân tộc Việt Nam cũng như chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Lá cờ đỏ sao vàng đã thấm vào máu của đồng bào ta trong Nam kỳ khởi nghĩa 1940. Chính lá cờ này đã cùng phái đoàn Chính phủ đi từ Châu Á, nó đã đi khắp đất nước ngọn nguồn Việt Nam. Vậy thì trừ 25 triệu đồng bào, còn không ai có quyền thay đổi quốc kì và quốc ca”.
Quốc kỳ tung bay thắm sắc đỏ và nổi bật lên ngôi sao vàng năm cánh, thể hiện ý tưởng máu đỏ da vàng, tượng trưng cho dân tộc và sự đoàn kết các tầng lớp nhân dân bao gồm sĩ, nông, công, thương, binh trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Lá cờ đỏ sao vàng là hồn nước, là niềm tự hào, biểu tượng thiêng liêng, bất khả xâm phạm của dân tộc Việt Nam. Tại quảng trường Ba Đình hình ảnh quốc kỳ tung bay như sự tự do, độc lập của nhân dân ta.

Tuyên ngôn Độc lập là văn kiện lịch sử có ý nghĩa vô cùng trọng đại đối với vận mệnh của dân tộc. Là bản hùng ca viết tiếp những trang sử huy hoàng của ngàn năm về trước, đã đánh dấu thắng lợi của một thế kỷ ngoan cường chống thực dân, phong kiến và mở ra một kỷ nguyên mới trên đất nước ta. Tuyên ngôn Độc lập chẳng những đã khai sinh một nhà nước - nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa, nhà nước độc lập đầu tiên trong hệ thống thuộc địa thế giới, mà còn báo hiệu sự thành lập một chế độ xã hội mới - chính quyền công nông đầu tiên ở khu vực Đông Nam Á. Từ đây với tư cách người chủ thực sự của đất nước, nhân dân Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã kiên cường đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, thống nhất nước nhà, xây dựng một nước Việt Nam “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Gần 10 năm sau ngày khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, tại kỳ họp quốc hội Khóa I, kỳ họp thứ 5 năm 1955, Quốc huy Việt Nam đã được thông qua, gắn bó với lịch sử hào hùng của dân tộc, với sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng, biểu tượng cho sự lớn mạnh của Nhà nước Việt Nam Xã hội chủ nghĩa. Quốc huy được tác giả Bùi Trang Trước vẽ với hình tròn, nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh tương trưng cho lịch sử cách mạng và tiền đồ tươi sáng của cách mạng dân tộc. Bao xung quanh là hình ảnh bông lúa vàng và bánh xe vừa thể hiện nền nông nghiệp lua nước truyền thống của dân tộc ta vừa thể hiện sự giao lưu học hỏi và phát triển của nền công nghiệp nước nhà. Đồng thời hình ảnh bánh xe cũng là biểu tượng của liên minh công nhân, nông dân, trí thức là lực lượng nòng cốt của khối đại đoàn kết dân tộc.
Quốc huy Việt Nam
Đã 80 năm kể từ ngày lễ Độc lập 2/9/1945, Quảng trường Ba Đình vẫn còn giữ nguyên giá trị lịch sử, văn hóa. Là trung tâm chính trị - văn hóa, là nơi diễn ra những sự kiện trọng đại của đất nước. Và đây cũng là nơi có quy hoạch, cảnh quan và quần thể kiến trúc đẹp nhất ở Hà Nội. Cho đến ngày nay Ba Đình trở thành mảnh đất thiêng cùng những dấu ấn lịch sử không bao giờ phai mờ, cùng những kiến trúc tâm linh hiện hữu: Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đài tưởng niệm các anh hùng liệt sỹ. Quảng trường Ba Đình cũng là một địa điểm tham quan, vui chơi của du khách và người dân Hà Nội.
Quảng trường Ba Đình - nơi ghi dấu ấn lịch sử dân tộc Việt Nam.
Là nơi các vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước đứng trong những buổi lễ trọng đại của dân tộc. Quảng trường Ba Đình (phía trước Lăng Bác) như còn âm vang những bước chân dồn dập của đoàn quân chiến thắng. Tượng đài các anh hùng liệt sỹ nằm trên đường Bắc Sơn, con đường nhìn từ phía Quảng trường Ba Đình nối tượng đài tưởng niệm thẳng với cửa chính của Lăng. Trên đoạn đường 280 mét, rộng 60 mét là một vườn trồng những cây hoa tiêu biểu được đem về từ mọi miền đất nước. Tất cả hội tụ về Quảng trường Ba Đình như thì thầm bên tai các liệt sỹ anh hùng đã hiến dâng cuộc đời cho dân tộc. Nơi đây là chốn linh thiêng mỗi người con đất Việt ai ai cũng mong ước được về thăm dù chỉ một lần trong cuộc đời.