trongdong
text logo

NGÔI CHÙA PHẬT GIÁO NAM TÔNG KHMER TRONG ĐỜI SỐNG CỘNG ĐỒNG KHMER NAM BỘ

Tác giả bài viết: HT. Đào Như, Phó Chủ tịch Hội đồng Trị sự GHPGVN, Trưởng ban Trị sự TP.Cần Thơ, Viện trưởng Học viện Phật giáo Nam tông Khmer

Thứ hai - 03/11/2025 07:08
Trải qua biến thiên của lịch sử, Phật giáo Nam tông đã trở thành đặc trưng văn hóa truyền thống của vùng đất Tây Nam Bộ, với luân lý đạo đức Phật giáo luôn hướng con người đến những giá trị cao cả: chân - thiện - mỹ, những bài học về vô thường, vô ngã, vị tha, từ bi hỷ xả, an lạc, niết bàn..  Phật giáo Nam tông càng gần gũi và có mối quan hệ khăng khít với đời sống cộng đồng của người Khmer Nam Bộ, mà ngôi chùa Khmer được coi là điểm hội tụ.
Kiến trúc ngôi chùa Phật giáo Nam tông Khmer

Phật giáo Nam tông Khmer có mặt ở đồng Bằng sông Cửu Long từ rất sớm (khoảng thế kỷ IV SCN). Đến thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, đại bộ phận các phum, sóc của người Khmer đều có chùa thờ Phật. Ngôi chùa của Phật giáo Nam tông Khmer có ảnh hưởng bao trùm lên toàn bộ đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của người Khmer. Chính vì vậy, người Khemer có câu: 2 Ngôi chùa cùng thiết chế của nó đã trở thành .trong cuộc sống hàng ngày của họ. Chùa không chỉ là trung tâm sinh hoạt tôn giáo tín ngưỡng thuần túy, mà còn là trung tâm sinh hoạt văn hóa, xã hội của cộng đồng. Chùa là trung tâm tổ chức các lễ hội Phật giáo, nghi lễ liên quan đời sống hàng ngày và cả khi mỗi người mất đi. Chùa còn là nơi lưu giữ bảo tồn những giá trị văn hóa của người Khmer.

 Chùa Nam tông Khmer là không gian thiêng, công trình kiến trúc tôn giáo có nhiều giá trị về mặt thẩm mỹ, nơi hội tụ nhiều dòng văn hóa, nơi hội tụ, tập hợp khả năng kinh tế, chính trị, văn hoá - nghệ thuật của đồng bào Khmer. Ngôi chùa là một tập hợp toàn vẹn nhất của các yếu tố tạo hình, các yếu tố này kết hợp chặt chẽ và hỗ trợ lẫn nhau trong một chỉnh thể thống nhất.

Chùa Nam tông Khmer ảnh hưởng của ba dòng văn hoá, tôn giáo, tín ngưỡng là Bà la môn, Phật giáo và văn hoá Khmer, cụ thể là chịu ảnh hưởng kiến trúc của Ấn Độ và các nước Đông Nam Á như Thái Lan, Lào, Camphuchia… cùng văn hóa của người Khmer. Bởi vậy, kiến trúc nghệ thuật chùa Khmer là những công trình kiến trúc độc đáo, ẩn chứa nhiều giá trị văn hóa, nghệ thuật thẩm mỹ, ngôi chùa là kết tinh các thể thức nghệ thuật tạo hình, hài hoà giữa kiến trúc và điêu khắc từ hình thức trang trí bên trong đến bài trí bên ngoài, kết hợp giữa vẻ đẹp cổ kính, trầm mặc và sự nguy nga, lộng lẫy.

Về không gian ngôi chùa tọa lạc, trong đời sống người Khmer, ngôi chùa chiếm vị trí trung tâm trong đời sống tinh thần của họ, vì thế việc xây dựng chùa với cộng đồng Khmer có ý nghĩa lớn, là việc trọng đại của cả cộng đồng phum, sóc. Chùa Nam tông Khmer thường được bố trí ở những nơi chiếm vị trí trung tâm trong khu dân cư, trên một khoảng không gian rộng lớn, phong quang nhưng không kém phần u tịch, nơi được cho là nơi hội tụ linh khí của đất trời. Việc chọn thế đất còn tuân thủ một số nguyên tắc trong triết lý Phật giáo Nam tông. Đặc biệt xung quanh khu vực chùa thường có rất nhiều cây xanh to tạo bóng mát và cũng là những loài cây thân thuộc với người Khmer như cây thốt nốt, cây dầu, đặc biệt trong chùa thường trồng cây sala.

Về kiến trúc, Chùa Nam tông Khmer về cơ bản kiến trúc gồm các phần: hàng rào, cổng chùa, chính điện, nhà tăng, nhà thiêu, tháp... Đa số mặt tiền chùa hướng về phía Đông, vì họ cho rằng con đường tu hành của Phật đi từ Tây sang Đông và quan niệm Phật ở phương Tây hướng về phương Đông giác ngộ và ban phúc cho muôn dân. Các ngôi chùa Phật giáo Nam tông Khmer có thể được xây lớn nhỏ khác nhau nhưng bao giờ cũng phải đúng quy cách, tỉ lệ kích thước nhất định.
 
1
Chùa Chung Rút – Tây Ninh (Ảnh: TTXVN)

Trong chùa, chính điện nằm ở vị trí trung tâm được xây dựng thường có nền cao hơn các công trình khác trong chùa. Chùa có thể lớn nhỏ khác nhau nhưng chánh điện cần tuân theo quy cách chiều dài bằng hai lần chiều rộng, chiều cao bằng chiều dài, mái và thân là hai phần bằng nhau. Các diện tích khung cửa, nhà ở và điện thờ cũng tuân theo quy định đó, chóp nóc chùa thường là một tam giác cân, cao vút nhọn hướng thiên. Bởi người Khmer quan niệm hình tam giác mang tính chất kiên cố “vững như kiềng ba chân”, là sự viên mãn, ở đó chứa đựng cái đẹp hoàn mỹ và tuyệt đối. Trong đạo Hinđu thần linh tối thượng cũng hiện hình thành 3: Brama - Visnu - Siva, thế giới có 3 thành phần: Bhu - Bhuvas - Swar; đạo Phật có Tam thế (quá khứ - hiện tai - vị lai), và hoàn kết trong Tam bảo: Phật - Pháp -Tăng.

Chùa nào cũng có hành lang bao quanh điện, tạo không gian thoáng mát và là nơi trưng bày các tác phẩm điêu khắc, tượng thần rắn Naga. Chùa Nam tông Khmer có rất nhiều cửa, chính điện có bốn cửa chính ở hai hướng Đông - Tây, cùng bảy hoặc chín của sổ ở hai hướng Nam và Bắc.

Các diềm mái, góc giữa hai mái, đầu cột, chân cột, cánh cứa, mí cửa, xà ngang, dọc và trần nhà... đều được trang trí bằng những hình ảnh điêu khắc nhưng đều lấy cảm hứng chủ yếu từ cuộc đời đức Phật (từ khi sinh ra đến khi thành đạo và nhập Niết bàn) và nghệ thuật hoa lá mây nước trong đời sống cộng đồng người Khmer. Trên mái, các góc đầu đao đuôi rồng cao vút, uốn lượn tạo cảm giác uyển chuyển, mềm mại, vút cao.

Cổng chùa Nam tông Khmer được xây dựng khá cẩu kỳ và kỳ công: cổng chùa được xây dựng theo hình thức ngọn tháp, tuỳ theo giai đoạn, nhu cầu và không gian mà chùa xây một, ba hoặc năm ngọn tháp. Đối với cổng chùa có một ngôi tháp, hoặc lợp mái chùa nhiều lớp chồng lên nhau, hai bên cổng thường có hai vị thần bảo hộ, tượng sư tử, hoặc đầu thần rắn Naga uốn lượn trên tường rào, đầu ngẩng lên trời trước cổng chính, với ý nghĩa bảo vệ chốn già lam và những báu vật bên trong. Cổng chùa có ba ngôi tháp, phần dưới trang trí tương tự nhau, còn ý nghĩa ba ngôi tháp tượng trưng cho Phật, Pháp, Tăng (Tam Bảo), tháp giữa thường cách điệu rất chi tiết, màu sắc trang hoàng lộng lẫy, tượng trưng cho đức Phật tỏa hào quang. Cổng thường to lớn, hoa văn rất nhiều, dưới mái cổng có chằn và garuda, tượng mình người đầu chim Krud và vũ nữ Kenar với hai tay chống đỡ mái, nhìn rất uy nghiêm nhưng lại đầy uyển chuyển và đậm chất mỹ thuật.

Tường rào xung quanh chùa rất đặc sắc, một số cổng, tường chùa được sơn son, thếp vàng lộng lẫy, mỗi một trụ tường, vách tường rào được khắc tượng Phật, thần, chằn, sư tử, búp sen; trên mỗi trụ tường thường được sử dụng đầu người bốn mặt hay hình búp sen.

Một số hình tượng nghệ thuật thường được dùng trang trí trong các chùa Nam tông Khmer: Trong các chùa Khmer việc trang trí rất được chú trọng, và được thực hiện một cách tỉ mỉ ở những chỗ tưởng chừng như ít chú ý như góc mái, cột, diềm mái. Ở các bức tường và các cột thường dùng trang trí đắp nổi.

Không gian điện thờ, không gian trong chính điện của chùa Khmer được bài trí khá đơn giản với một bệ thờ theo hình một tòa sen chia thành nhiều cấp và trang trí lộng lẫy, cẩn thận, bên trên là tượng đức Phật. Tượng Phật Thích Ca được chạm khắc hài hòa với không gian chính điện và có thể tạo dáng ở nhiều tư thế đứng, nằm, ngồi, thể hiện sự đa dạng, phong phú về ý nghĩa đạo đức và vẻ đẹp của Đức Phật.

Theo truyền thống Nam Tông, thì ngoài đức Phật Thích Ca ra, không có một vị Phật nào khác. Do đó, họ chỉ tôn thờ một hình tượng Phật Thích Ca.

Nói chung, kiến trúc chùa Khmer là một loại hình kiến trúc không cầu kì nhưng vững chắc, tạo hiệu quả công năng cao, đồng thời hầu như tất cả đều biến thành vật liệu để cho trang trí – kiến trúc uy nghiêm mà lộng lẫy. Về nghệ thuật, ngôi chùa là một tổng thể nghệ thuật kiến trúc đặc trưng nhất của người Khmer. Về tâm linh, ngôi chùa là đỉnh cao của thăng hoa tôn giáo, tín ngưỡng, là nơi để tụ hội học đạo và là nơi để cùng sinh hoạt tâm linh. Ở chùa Nam tông, cái đẹp và cái tôn giáo và tín ngưỡng thiêng liêng hòa quyện vào nhau. Nghệ thuật kiến trúc – trang trí điêu khắc của ngôi chùa phần nào nói lên được tâm tư tình cảm, óc sáng tạo và năng khiếu thẩm mỹ đặc biệt của người Khmer Nam Bộ. Có thể nói ngôi chùa là biểu tượng điển hình, một sự độc đáo của vùng sông nước tạo nên nét đẹp đặc thù mà chỉ có ở người Khmer Nam Bộ.

Vai trò của ngôi chùa Phật giáo Nam tông Khmer trong đời sống cộng đồng Khmer Nam Bộ

Đối với người Khmer, Phật giáo là tôn giáo truyền thống mà tổ tiên họ đã lựa chọn từ ngàn đời, vì thế, ngay từ khi sinh ra họ đã trở thành Phật tử của Phật giáo Nam tông Khmer. Chính vì thế ngôi chùa thờ Phật đóng vai trò quan trọng, trở thành trung tâm trong đời sống văn hóa tinh thần của họ, chùa là trung tâm cộng đồng, nơi diễn ra các nghi lễ quan trọng từ sinh, lão, bệnh, tử đến lễ hội, và là nơi lưu giữ văn hóa truyền thống của cộng đồng.

Trước tiên, với người Khmer, ngôi chùa là nơi thờ Phật, nghe giảng giáo ly, tu tập, học Phật… đáp ứng nhu cầu tôn giáo của người Khmer. Trong tâm thức của người Khmer, đức Phật là hình mẫu của sự giác ngộ, là người dẫn dắt con người thoát khỏi khổ đau và tìm đến sự an lạc. Chùa là nơi thờ Phật, thực hành các nghi lễ để tỏ lòng ngưỡng vọng của người tín đồ với đức Phật, không chỉ ở các nghi lễ Phật giáo được tổ chức trong các dịp lễ hội lớn, như Lễ Phật đản, Lễ Vu Lan hay lễ hội dâng y Kathina, Chôl Chnăm Thmây, lễ Sene Đônta, lễ hội Ok Om Bok, nghi thức dâng cúng trai tăng và các nghi lễ khác… mà theo tập quán, bà con đến chùa thường xuyên, thường ngày khi có công việc. Trong tháng, bà con đến chùa đông nhất vào 4 ngày (mồng 8, 15, 23, 30) theo lịch người Khmer. Người Khmer đến chùa lễ Phật, thực hành, tu học theo giáo lý Phật giáo, từ đó các triết lý Phật giáo, các chuẩn mực đạo đức Phật giáo như từ bi, nhân quả, vô ngã vị tha... đã định hình lối sống, ứng xử và góp phần tạo nên bản sắc văn hóa độc đáo, sự gắn kết cộng đồng và tính cố kết dân tộc của người Khmer. Các giáo lý về nhân quả báo ứng, vô ngã vị tha, yêu thương muôn loài đã trở thành phương châm sống, giúp người Khmer xa lánh tệ nạn xã hội, sống chân thành và chất phác.
 
2
Phong tục đắp núi cát của người Khmer trong ngày tết cổ truyền Chôl Chnăm Thmây (Ảnh: TTXVN)

Người Khmer cố kết cộng đồng, nương tựa, giúp đỡ nhau trong đời sống. Các sư của chùa, các thành viên của Ban Achar cũng là người thân, con em của người dân trong ấp. Những người nghèo trong ấp được sư cả chùa giúp gạo, tiền; những hộ khá giả đóng góp lương thực vào chùa để giúp đỡ người nghèo. Nếu gia đình nào nghèo quá, nhà chùa sẽ giúp toàn bộ. Những hộ gia đình nghèo lại ốm đau hoạn nạn, nhà chùa cũng chính là điểm tựa cho họ.

Chùa là nơi duy trì đời sống tín ngưỡng tinh thần của người Khmer, cứ mỗi năm đến dịp lễ hội dân trong phum, sóc dù có đi làm ăn xa  cũng trở về chùa không chỉ để lễ Phật mà còn để thắp hương tưởng nhớ tổ tiên, những người đã sinh thành và dưỡng dục mình, nay đã về với Đức Phật. Đây là một nét đẹp văn hóa mang dấu ấn đặc trưng của đạo đức Phật giáo, khiến ngôi chùa trở thành nơi cố kết và gắn bó giữa những người đã khuất và những người còn sống, giữa thế hệ cha ông và thế hệ con cháu.

Các vị sư Khmer còn góp phần quan trọng vào việc duy trì, phát triển các giá trị đạo đức xã hội tốt đẹp qua việc lấy chính đạo hạnh và đức độ của mình trong cuộc sống làm gương cho xã hội, mà trước hết là trong cộng đồng người Khmer ở Nam Bộ. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, đã có nhiều vị sư  xung phong tòng quân diệt giặc, trong số đó đã có những vị anh dũng hy sinh, như các vị Hòa thượng Danh Tấp, Lâm Hùng, Danh Hoi, Danh Hom ở Kiên Giang và những vị khác nữa…

Chùa là trung tâm giáo dục của cộng đồng. Theo tập quán truyền thống của người Khmer, người con trai trong mỗi gia đình khi lớn lên sẽ được gia đình gởi vào chùa tu học (Tu báo hiếu). Tại đây họ sẽ được học tiếng Pali, chữ Khmer (tiếng mẹ đẻ), giáo lý, học nghề…và rèn luyện bản thân để thành người có tri thức, đạo đức, xứng danh với gia đình và xã hội. Thời gian tu học tại chùa không bắt buộc dài hoặc ngắn. Sau một thời gian tu báo hiếu, những người có đủ điều kiện tu tiếp thì trở thành vị Tăng tài của hệ phái. Những người không đủ duyên tu tiếp thì trở về gia đình với những hành trang đã được trang bị trong quá trình tu học để hoà nhập vào đời sống xã hội đã hội, có đủ những tiêu chí về văn hoá, đạo đức.

Trong bối cảnh hiện nay, ngôi chùa Phật giáo Nam tông Khmer vẫn đang mang trong mình sứ mệnh giáo dục, gìn giữ, duy trì các giá trị văn hóa truyền thống của cộng đồng Khmer. Trước hết trong việc gìn giữ, duy trì ngôn ngữ và chữ viết của cộng đồng Khmer. Trong lịch sử phát triển của dân tộc Khmer, nhà chùa luôn là nơi đào tạo những tri thức dân gian cho con em trong phum, sróc. Người vào chùa tu học tiếp thu các kiến thức văn hóa thông qua chữ Khmer, được học kinh sách, tụng niệm bằng tiếng Khmer, Pali. Với người Khmer, các ngôn ngữ này được coi là những ngôn ngữ thiêng liêng, chỉ dùng trong tụng niệm và là phương tiện chuyển tải những nội dung cao cả trong kinh điển Phật giáo. Mùa hè mỗi năm, rất nhiều ngôi chùa Nam tông Khmer mở các lớp dạy chữ Khmer cho con em đồng bào dân tộc Khmer. Các lớp học trong chùa do chính các sư đảm trách, họ được gọi là các sãi giáo.

Mỗi ngôi chùa Nam tông Khmer là bảo tàng văn hóa đặc sắc của cộng đồng. Chùa không chỉ là nơi thờ Phật, nơi truyền đạt giáo lý Phật giáo đến Phật tử, là nơi nương tựa tín ngưỡng Phật giáo trong cuộc sống mà chùa còn là trung tâm văn hóa, nơi thực hiện lễ hội theo phong tục, tập quán của dân tộc. Đặc biệt, đồng bào Khmer ở vùng đồng bằng sông Cửu Long hiện đang kế thừa một si sản văn hóa vô giá, đó là kho tàng nhạc khí dân tộc rất phong phú, đa dạng, mang đặc trưng văn hóa của đồng bào Khmer, trong đó có nghệ thuật Chầm riêng chà-pây (chầm riêng nghĩa là hát, chà pây tức là cây đàn chà pây), một loại hình nghệ thuật trình diễn dân gian có từ lâu đời.

Những lễ hội truyền thống lớn của người Khmer đều diễn ra ở chùa: Chôl Chnăm Thmây, lễ Sene Đônta, lễ hội Ok Om Bok… Cụ thể như: Vào dịp giữa tháng Tư Dương lịch hằng năm, các ngôi chùa Phật giáo Nam tông Khmer lại nô nức vào mùa lễ hội Chôl Chnăm Thmây. Ngày đầu tiên của dịp Tết (Thngay Chol Chnam Thmay), đồng bào mặc quần áo đẹp, mang nhang đèn, lễ vật đến dâng lên chùa. Dưới sự điều hành của ông Achar, mọi người cùng nhau xếp hang, đi 3 vòng quanh chính điện để chào mừng năm mới. Ngày thứ hai (Thngay Von-boch), mỗi gia đình sẽ làm lễ dâng cơm lên các vị sư sãi. Đáp lại, các vị sư sãi tạ ơn những người đã làm ra hạt gạo, chăn nuôi, cho cuộc sống ấm no, đủ đầy. Buổi chiều, đồng bào tập trung tại chùa để đắp núi cát, với mong ước mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu. Ngày thứ ba (Thngay Lơn-săk) cũng là ngày cuối Tết, sau khi dâng cơm cho các vị sư, đồng bào làm lễ tắm tượng Phật, nhằm tỏ lòng biết ơn đức Phật, gột rửa những điều không may trong năm cũ và cầu mong vạn sự như ý trong năm mới. Lễ hội Chôl Chnăm Thmây là dịp để cộng đồng Khmer cùng nhau họp mặt, mừng năm mới, cầu mong mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, giáo dục lòng hiếu thảo với tổ tiên, cha mẹ, và củng cố tình đoàn kết cộng đồng trong phum, sóc.

 Viết về vai trò của ngôi chùa trong đời sống người Khmer, đặc biệt là trong gìn giữ các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể của cộng đồng, tác giả Phan An nhận xét: “Ngôi chùa Khmer là trung tâm tôn giáo, văn hóa, giáo dục… của cộng đồng phum, sóc Khmer. Hàng năm, người Khmer có nhiều lễ tết, mà phần lớn tổ chức ở chùa như tết mừng năm mới (Chol chnam Thmây), Lễ cúng Ông Bà (Đolta), lễ làm phúc… Vào những dịp lễ này, người Khmer trong phum, sóc, tụ tập tại chùa để tham dự lễ hội, cúng dường sư sãi, gặp gỡ giao lưu với khách khứa…”“Một số chùa Khmer lưu giữ nhiều sách vở, có loại sách viết trên lá buông cách nay hàng trăm năm. Ngoài các sách kinh Phật, còn có nhiều sách ghi chép lại các truyện cổ, huyền thoại, Phật thoại, ca dao, tục ngữ của người Khmer” (Phan An, 2003)

Trong đời sống tâm linh của người dân tộc Khmer, thì các vị sư sãi có vai trò quan trọng đặt biệt. Bởi người dân xem các vị sư sãi là hiện thân của Tam Bảo (Phật – Pháp – Tăng), là nguồn gốc của phước đức và hạnh phúc, được xem như một cầu nối giữa tín đồ và Đức Phật. Các nhà sư không chỉ là người hướng dẫn phật tử Khmer tu hành theo đúng chánh pháp, mà còn là những người Thầy có vị trí và ảnh hưởng rất lớn trong việc giáo dục đạo đức, lối sống cho cộng đồng Phật tử Khmer. Các vị sư hướng đến việc xây dựng nếp sống chuẩn mực, có đạo hạnh, là những tấm gương được cộng đồng tôn trọng, từ đó góp phần vào việc duy trì, phát triển các giá trị đạo đức xã hội tốt đẹp trong cộng đồng người Khmer ở Nam Bộ.

Trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước hiện nay, các vị cao tăng, chức sắc trụ trì chùa được đồng bào dân tộc Khmer tín nhiệm, tin tưởng, tham gia tích cực cùng chính quyền địa phương vận động, tuyên truyền đồng bào phật tử nghiêm chỉnh chấp hành chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tích cực tham gia hòa giải các vụ tranh chấp, mâu thuẫn trong nhân dân. Sư sãi và các vị chức sắc ở mỗi Phum, sóc thực sự là cầu nối giữa chính quyền với dân, đưa đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước đến với nhân dân.

Như vậy, từ những trình bày trên đây cho thấy, đối với người Khmer, ngôi chùa của người Khmer có một vị trí quan trọng trong đời sống của người dân: chùa là nơi thờ Phật – tôn giáo truyền thống ngàn đời của người Khmer, là nơi cứu nhân độ thế khi có người gặp hoạn nạn;  là nơi tôn thờ xương cốt ông bà, cha mẹ quá cố của người Khmer, nơi tập trung tất cả các lễ hội của người Khmer; Chùa cũng chính là nơi bảo tồn văn hóa vật thể và phi vật thể của tộc người Khmer.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phan An (2003), Phật giáo trong đời sống người Khmer Nam bộ, Nghiên cứu Tôn giáo (5), tr. 20-24.
2. Hoàng Thị Lan (2021), Đời sống tôn giáo, tín ngưỡng vùng dân tộc thiểu số ở Việt Nam hiện nay, Nxb. Lý luận Chính trị, Hà Nội.
3. Trường Lưu (chủ biên, 1993), Văn hóa người Khmer vùng đồng bằng sông Cửu Long, Nxb. Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.
4. Danh Lung, Châu Hoài Thái (2017), Phật giáo Nam tông Khmer đồng hành cùng dân tộc, Nxb. Văn hóa văn nghệ, TP. Hồ Chí Minh.
5. Lê Quốc Lý (2017), Chính sách đối với Phật giáo Nam tông Khmer và đồng bào Khmer vùng Tây Nam Bộ, Nxb. Chính trị Quốc gia sự thật, Hà Nội

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây