trongdong
text logo

TỰ DO NGÔN LUẬN - TRÁCH NHIỆM CỦA GIẢNG VIÊN Ở CÁC TRUNG TÂM CHÍNH TRỊ TỈNH THANH HÓA TRONG VIỆC ĐẤU TRANH, PHẢN BÁC CÁC LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC, THÙ ĐỊCH

Tác giả bài viết: ThS. Nguyễn Thị Ngân - Trung tâm Chính trị Phường Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa

Thứ năm - 21/08/2025 04:50
     Tự do ngôn luận là quyền cơ bản, thiêng liêng vốn có của con người. Ở Việt Nam, quyền này được hiến định trong các Hiến pháp và được tôn trọng, bảo đảm trong thực tế. Tuy nhiên, một số tổ chức, cá nhân vẫn ra sức chống phá Đảng và Nhà nước ta trên mọi lĩnh vực, trong đó vấn đề về tự do ngôn luận vẫn là chủ đề được các đối tượng quan tâm. Trước yêu cầu thực tiễn đặt ra, đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên và hơn ai hết giảng viên trong hệ thống trung tâm chính trị không chỉ hiểu đúng, thực hiện nghiêm mà còn phải luôn nâng cao cảnh giác, nhận diện, đấu tranh phản bác những quan điểm sai trái, luận điệu mới của các thế lực thù địch.
     I. MỞ ĐẦU
     Quyền tự do ngôn luận là quyền cơ bản vốn có của con người, ai sinh ra cũng có quyền tiếp nhận thông tin, được nói, viết, bày tỏ quan điểm, tình cảm của mình một cách chính đáng mà không ảnh hưởng đến quyền lợi của cá nhân, tchức, lợi ích dân tộc. Ngay khi thành lập nước cho đến nay, nước ta luôn bảo đảm, tôn trọng và được hiến định quyền tự do ngôn luận trong các bản Hiến pháp. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy các phần tử phản động trong và ngoài nước vẫn ra sức vu khống nhằm phủ nhận kết quả đạt được vquyền tự do ngôn luận. Đồng thời xuyên tạc chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước gây hoang mang, dao động không ít cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Trước âm mưu và thủ đoạn ngày càng tinh vi, thâm độc của các thế lực thù địch, đòi hỏi mỗi cán bộ, giảng viên trong hệ thống trung tâm chính trị tỉnh Thanh Hóa cần nêu cao tinh thần, vai trò, trách nhiệm của mình trong việc tuyên truyền v quyền tự do ngôn luận góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới.
     II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
     2.1. Nhận thức đúng về quyền tự do ngôn luận
     Tuyên ngôn toàn thế giới về Nhân quyền được thông qua năm 1948 đã khẳng định: “Mọi người đều có quyền tự do về ý kiến và ngôn luận, quyền này bao gồm cả quyền không bị lo ngại tự do về những ý kiến của mình và quyền tìm kiếm, thu nhận và phổ biến những thông tin và những ý tưởng bất cứ bằng phương tiện diễn đạt nào, không kể tới các biên giới…[1]. Quan điểm nêu rõ, con người ai cũng có quyền được tìm hiểu, tiếp nhận thống tin; phát biểu, tham gia đóng góp ý kiến thông qua bất cứ phương tiện và địa điểm nào trên địa cầu này.
     Ở Việt Nam, vấn đề về quyền tự do ngôn luận được đưa ra cũng tương thích với luật pháp quốc tế. Đã không ít lần thông qua các bài báo, bài viết, các tác phẩm chính luận Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng luận về vấn đề quyền con người, trong đó có quyền tự do ngôn luận. Tư tưởng của Người được cụ thể hóa trong bản Hiến pháp đầu tiên năm 1946: “Công dân Việt Nam có quyền: Tự do ngôn luận”[2]. Quyền này, tiếp tục được Đảng ta bảo đảm, tôn trọng và được hiến định qua các bản Hiến pháp năm 1959, năm 1980, năm 2013. Điều này chứng minh rằng Đảng, Nhà nước ta luôn quan tâm đến quyền tự do ngôn luận, trong quá trình thực hiện mỗi công dân đều nhận thức được bản chất, tính ưu việt của chế độ, Nhà nước của dân, do dân và vì dân.
     Mỗi người dân được quyền tiếp nhận thông tin bằng nhiều phương tiện khác nhau, có thể trực tiếp hoặc gián tiếp; người dân trực tiếp phát biểu ý kiến, quan điểm một cách khách quan, trung thực, như: Cán bộ, công chức, viên chức được bày tỏ ý kiến tại cuộc họp cơ quan nhằm xây dựng và phát triển cơ quan, đơn vị, người dân được tham gia trình bày quan điểm của mình trong các cuộc họp tiếp xúc cử tri tại địa phương... Như vậy công dân Việt Nam có quyền tự do ngôn luận, được bày tỏ chính kiến về các vấn đề chính trị, kinh tế - xã hội của đất nước, phù hợp với quy định của pháp luật. Tuy nhiên, cần bảo đảm quyền này trong khuôn khổ pháp luật, tuân thủ văn hóa giao tiếp và đạo đức, thuần phong mỹ tục. Tại Điều 25, Hiến pháp năm 2013 nêu rõ: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình, việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”. Điều đó cho thấy thực thi quyền tự do ngôn luận một cách hiệu quả cần phải giới hạn chúng. Quan điểm này cũng phù hợp với xu thế chung của thời đại, tương đồng với quan điểm của tuyệt đại đa số các nước phát triển trên thế giới.
     Đơn cử, Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền nổi tiếng của Pháp năm 1789, Điều 11 đã ghi rõ: “Bất kỳ công dân nào cũng có thể nói, viết và công bố tự do; tuy nhiên họ sẽ phải chịu trách nhiệm nếu lạm dụng quyền tự do này theo quy định của pháp luật”.
     Khoản 2, Điều 29 Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền năm 1948 nêu rõ: “Trong khi hành xử những quyền tự do của mình, ai cũng phải chịu những giới hạn do pháp luật đặt ra nhằm bảo đảm những quyền tự do của người khác cũng được thừa nhận và tôn trọng, những đòi hỏi chính đáng về đạo lý, trật tự công cộng và an lạc chung trong một xã hội dân chủ cũng được thỏa mãn”.
     Hiến định Đức quy định: “Ai lợi dung các quyền tự do ngôn luận, đặc biệt là tự do báo chí, tự do tuyên truyền... làm công cụ chống lại trật tự của xã hội, tự do dân chủ sẽ bị tước quyền công dân”.
Gần đây, liên minh châu Âu đã yêu cầu các ông lớn về công nghệ như: Facebook, Google, Youtube, Twitter phải “mạnh tay” hoặc có những quy định khắt khe hơn nữa để có thể kiểm soát, hạn chế, ngăn chặn người dùng mạng xã hội sử dụng những thông tin xấu, độc ảnh hưởng đến người khác.
Một số nước trong khu vực Đông Nam Á như Thái Lan, Singapore cũng đã đưa vào trong Bộ luật là xử phạt nghiêm đối với những tổ chức và cá nhân vi phạm quyền tự do ngôn luận, đã nhiều lần yêu cầu những nhà cung cấp mạng xã hội phải có trách nhiệm và cơ chế kiểm duyệt, ngăn cấm những tài khoản, video clip có nội dung vu khống, sai sự thật.
     Tại Mỹ, lâu này các thế lực thù địch thông qua các bài viết, video clip để ra sức tuyên truyền nơi đây là thiên đường của tự do ngôn luận nhưng để thực thi quyền này một cách tốt nhất họ cũng xác định tự do ngôn luận trong giới hạn, quan điểm của họ là xử lý nghiêm những đối tượng phát ngôn tục tĩu, khiêu dâm mà không bị xem là vi hiến. Đạo luật của Chính phủ Mỹ đã thông qua vào tháng 4 năm 2024 ngừng việc cung cấp dịch vụ TikTok trên đất mỹ trong khi tại Việt Nam công dân có quyền truy cập các trang mạng xã hội.
     Như vậy đa phần các nước phát triển trên thế giới đều tôn trọng và tuân thủ quyền tự do ngôn luận nhưng đều xây dựng một số văn bản quy phạm pháp luật để giới hạn chúng trong khuôn khổ cho phép. Thực tế cho thấy, mặc dù quyền tự do, trong đó có tự do ngôn luận được công nhận rộng rãi, song không có quốc gia nào xem đó là quyền lực tuyệt đối, bất khả xâm phạm. Không chỉ riêng Việt Nam, mà tại tất cả các quốc gia trên thế giới, dù có cách tiếp cận khác nhau, vẫn cùng tuân theo một nguyên tắc cơ bản đó là: Việc thực thi quyền tự do ngôn luận phải đặt trong bối cảnh cụ thể về lịch sử, văn hóa, trình độ dân trí, điều kiện kinh tế - xã hội và thể chế chính trị của từng nước. Không ai được phép lợi dụng quyền tự do ngôn luận để xâm phạm lợi ích quốc gia - dân tộc, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của tổ chức, cá nhân khác, hay gây phương hại đến đạo đức xã hội và trật tự công cộng. Mọi công dân đều có quyền thực hiện tự do ngôn luận trong khuôn khổ pháp luật và được Nhà nước bảo hộ. Do đó, mỗi người dân cần tỉnh táo, cảnh giác nhận diện rõ các âm mưu, thủ đoạn lợi dụng quyền tự do ngôn luận để chống phá đất nước. Chỉ khi nhận thức đúng bản chất vấn đề, chúng ta mới có thể chủ động đấu tranh, làm thất bại mọi chiêu trò xuyên tạc, phá hoại.
     Tự do ngôn luận là một biểu hiện phức tạp nhưng không khó để nhận diện. Chúng ta cần phân biệt rõ giữa “tự do ngôn luận” và “ngôn luận tự do”. “Tự do ngôn luận” là quyền cơ bản của công dân, cho phép mỗi người được trao đổi, chia sẻ, tranh luận và phản biện xã hội một cách khách quan, vì lợi ích chung của cộng đồng. Quyền này phải được thực hiện trong khuôn khổ chuẩn mực văn hóa, đạo đức và pháp luật, tuyệt đối không được lợi dụng để phục vụ mưu đồ cá nhân, xâm hại lợi ích công hoặc phá vỡ các giá trị văn hóa cộng đồng. Ngược lại, “ngôn luận tự do” là biểu hiện của việc phát ngôn, bình luận, chia sẻ, phát tán thông tin một cách tùy tiện, thiếu kiểm soát và vô trách nhiệm. Trên thực tế, không có quyền tự do nào là tuyệt đối. Tự do chỉ thực sự có ý nghĩa khi đi kèm với giới hạn hợp lý. Một thứ tự do không giới hạn sẽ dẫn đến tình trạng vô chính phủ, gây mất kiểm soát và rối loạn xã hội.
Để cán bộ, đảng viên và nhân dân hiểu đúng, thực hiện nghiêm và góp phần đấu tranh với những hành động lối kéo, vu khống của các thế lực thù địch về quyền tự do ngôn luận, đội ngũ giảng viên trong hệ thống trung tâm chính trị cần nâng cao hơn nữa về tinh thần, trách nhiệm trong công tác tuyên truyền, đấu tranh phản bác các quan điểm xuyên tạc về việc thực hiện quyền tự do ngôn luận ở nước ta.
     2.2. Vấn đề tự do ngôn luận tại Việt Nam trong thời gian qua
     Thời gian qua, việc thực hiện quyền tự do ngôn luận ở nước ta đã đạt được những kết quả rất quan trọng và thực tế đã được cộng đồng quốc tế công nhận.
     Với những nỗ lực không ngừng trong việc thực thi và bảo vệ các quyền cơ bản của con người, Việt Nam đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận và tín nhiệm cao. Tại kỳ bầu cử của Đại hội đồng Liên hợp quốc tại Hoa Kỳ, Việt Nam đã trúng cử Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp quốc nhiệm kỳ 2020 - 2021 với số phiếu gần như tuyệt đối: 192/193 phiếu. Việt Nam được đánh giá là đã thực hiện thành công nhiệm vụ trong nhiệm kỳ này, góp phần thúc đẩy chủ nghĩa đa phương, kiên trì đề cao luật pháp quốc tế và Hiến chương Liên Hợp quốc, thể hiện vai trò tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.
Trong thời đại bùng nổ thông tin, đặc biệt là trên các nền tảng mạng xã hội, mỗi cơ quan báo chí không chỉ là kênh truyền tải thông tin mà còn là đại diện ngôn luận của tổ chức trong hệ thống chính trị. Cùng với đó, mỗi công dân đều có cơ hội thể hiện ý chí, nguyện vọng của mình trước công luận thông qua các kênh báo chí chính thống hoặc các nền tảng truyền thông số.
     Theo thống kê của Hội Nhà báo Việt Nam, đến hết năm 2023, cả nước có hơn 820 cơ quan báo chí đang hoạt động. Lực lượng nhân sự hoạt động trong lĩnh vực báo chí hiện vào khoảng 41.000 người. Con số này cho thấy quy mô và vai trò quan trọng của báo chí trong việc bảo đảm quyền được thông tin và tự do ngôn luận của nhân dân, đồng thời là lực lượng nòng cốt trong công tác định hướng dư luận xã hội.
Theo báo cáo của Digital Việt Nam 2025, dựa trên nghiên cứu của We Are Social & Meltwater ghi nhận vào tháng 02/2025, Việt Nam hiện là quốc gia tốp đầu về tỷ lệ công dân tham gia mạng xã hội, với 79,8 triệu người dùng internet, chiếm 78,8% tổng dân số (101 triệu người), có 76,2 triệu người dùng mạng xã hội tại Việt Nam, chiếm 75,2% tổng dân số.
     Với con số sử dụng lớn như vậy, không thể nói rằng Việt Nam hạn chế người dùng mạng xã hội. Theo luật định tại Việt Nam không ai và nhóm công dân nào bị cấm hay hạn chế tham gia mạng xã hội cũng như thể hiện quyền tự do ngôn luận của mình. Bên cạnh đó, chúng ta hạn chế những nội dung có chứa đựng những vấn đề trái với thuần phong mỹ tục, trái với đạo lý làm ảnh hưởng đến tổ chức, cá nhân, đến việc thực hiện phát triển kinh tế - xã hội, trật tự an toàn xã hội.
     Lợi dụng quyền tự do ngôn luận để xâm hại lợi ích của Nhà nước, tổ chức và cá nhân không phải là vấn đề mới. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, đặc biệt trên không gian mạng, tình trạng phát ngôn tùy tiện, lệch chuẩn, thiếu ý thức xây dựng, thậm chí đi ngược lại với quan điểm, đường lối của Đảng và tiếp tay cho những luận điệu xuyên tạc, bóp méo của các thế lực thù địch đang diễn biến phức tạp. Một trong những nguyên nhân chính là do nhận thức chưa đầy đủ về quyền tự do ngôn luận. Một bộ phận người dân vẫn nhầm lẫn, cho rằng đây là quyền tuyệt đối, không có giới hạn, dẫn đến việc lẫn lộn giữa quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm công dân. Đáng chú ý, đã xuất hiện những trường hợp lợi dụng quyền tự do ngôn luận trên mạng xã hội để phê phán theo chiều hướng tiêu cực vi phạm quyền tự do ngôn luận, vi phạm nghiêm trọng pháp luật, gây ảnh hưởng tiêu cực đến an ninh trật tự và uy tín của cá nhân, các cơ quan, tổ chức.
     Lợi dụng việc các cơ quan chức năng của Nhà nước ta tiến hành xử lý theo quy định pháp luật đối với một số cá nhân lợi dụng quyền tự do ngôn luận để vi phạm pháp luật, các thế lực thù địch, phản động đã ra sức xuyên tạc, vu cáo Việt Nam thông qua một số diễn đàn như BBC, VOA, RFA… Chúng lớn tiếng rêu rao những luận điệu sai trái như: “Việt Nam vi phạm tự do ngôn luận”, “đàn áp những người bất đồng chính kiến”,...
     Gần đây có nhiều người dân cũng đã bị xử phạt hành chính khi tham gia mạng xã hội, sử dụng, cung cấp, chia sẻ những thông tin giả mạo sai sự thật, những hình ảnh, trích đoạn được cắt ghép trên các video, diễn đàn thiếu thiện chí với Việt Nam ở hải ngoại nhằm dắt mũi, lôi kéo dân chúng. Thậm chí một số người nổi tiếng, có tầm ảnh hưởng cũng đã có những video, phát ngôn gây “sốc” dư luận, quảng cáo “lố” của một số MC, diễn viên, người mẫu, văn nghệ sỹ... Điều đáng buồn hơn, có những cán bộ, đảng viên, cán bộ, lãnh đạo quản lý ở cơ sở cũng có những phát ngôn thiếu chuẩn mực, “thô lỗ”. Những cán bộ này đã vi phạm đạo đức công vụ và phải chịu mức xử lý nghiêm khắc. Không chỉ vậy, các phần tử cơ hội cũng đã triệt để lợi dụng những sai phạm trong thực thi công vụ của một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức để kích động dư luận. Thậm chí, ngay cả những phát ngôn mang tính xây dựng hoặc ý kiến đóng góp thẳng thắn của các chuyên gia, nhà khoa học có uy tín, không được một số cá nhân đồng tình, cũng dễ dàng bị đẩy lên mạng xã hội, kèm theo làn sóng ý kiến trái chiều, phản bác với lời lẽ và giọng điệu thiếu văn hóa, thiếu chuẩn mực. Núp bóng dưới danh nghĩa quyền tự do ngôn luận và sự kết nối rộng khắp của môi trường truyền thông số, họ không ngần ngại chỉ trích, thậm chí công kích các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước. Những phát ngôn tùy tiện, lệch chuẩn này không chỉ tạo ra cái nhìn méo mó, sai lệch về tình hình đất nước mà còn gây ra hệ lụy lâu dài, âm ỉ, khó đo lường đối với niềm tin xã hội và sự ổn định chính trị. Tựu chung lại, nguyên nhân sâu xa vẫn là do họ chưa nhận thức đầy đủ và đúng đắn về quyền tự do ngôn luận, chưa phân biệt được ranh giới giữa thực thi quyền công dân và hành vi xâm hại đến danh dự, quyền lợi hợp pháp của tổ chức, cá nhân khác.
     Song, dù bằng bất kỳ chiêu thức nào, dù tinh vi, biến ảo đến đâu, các thế lực thù địch, phản động cũng không thể che đậy được tâm địa xấu xa và âm mưu đen tối của chúng, nếu mỗi công dân Việt Nam, đặc biệt là đội ngũ giảng viên lý luận chính trị luôn giữ vững bản lĩnh, hiểu đúng, hành động đúng và nêu cao tinh thần trách nhiệm trong việc đấu tranh phản bác các luận điệu sai trái, xuyên tạc. Trên mặt trận tư tưởng, sự kiên định, tỉnh táo và chủ động của từng cán bộ, giảng viên lý luận chính trị chính là “lá chắn” vững vàng góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, giữ gìn ổn định chính trị - xã hội, và củng cố niềm tin của nhân dân vào con đường phát triển mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn.
     2.3. Vai trò, trách nhiệm của đội ngũ giảng viên ở các trung tâm chính trị trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa trong việc đấu tranh, phản bác luận điệu xuyên tạc, thù địch về vấn đề tự do ngôn luận
     Thời gian qua, đội ngũ giảng viên ở các trung tâm chính trị trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa luôn nhận thức được vai trò, trách nhiệm trong việc đấu tranh, phản bác các quan điểm, luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch về vấn đề tự do ngôn luận.
     Thông qua các bài giảng, họ trang bị cho học viên được thế giới quan, phương pháp luận biện chứng, góp phần tôi luyện cho học viên bản lĩnh chính trị vững vàng, có khả năng giải quyết được các vấn đề liên quan đến thực tiễn.
     Theo thống kê của Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Thanh Hóa, trong giai đoạn từ năm 2009 đến 2024, công tác giáo dục lý luận chính trị ở các trung tâm chính trị cấp huyện, thị, thành phố của tỉnh Thanh Hóa được đặc biệt quan tâm, tổng số 12.884 lớp với 1.518.633 học viên, trong năm 2024 toàn tỉnh đã mở được 1.094 lớp với 184.722 lượt học viên.
Bảng 1: Công tác giáo dục lý luận chính trị giai đoạn 2009 - 2024
TT Tên lớp Số lượng lớp Học viên
1
Bồi dưỡng  Nhận thức về Đảng 1.582 128.559
2
Bồi dưỡng  LLCT cho đảng viên mới 1.162 96.521
3
cấp lý luận chính trị 171 9.789
4
6 chuyên đề 2.955 342.626
5
Bồi dưỡng nghiệp vụ công tác Đảng 870 93.105
6
BDlý luận chính trị và nghiệp vụ công tác của MTTQ Việt Nam và các đoàn thể 1.496 190.140
7
Bồi dưỡng, cập nhật kiến thức 863 107.525
8
Nghị quyết 1.925 350.902
9
Lớp cấp ủy 156 16.705
10
Liên kết 1.594 172.256
11
Bồi dưỡng chuyên đề lịch sử Đảng 110 10.505
Tổng 12.884 1.518.633
      Nguồn: Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Thanh Hóa
     Từ thực tiễn mở lớp cho thấy, đội ngũ giảng viên tại các trung tâm chính trị là lực lượng nòng cốt, chủ đạo trong việc giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng. Hằng năm, các trung tâm chính trị đã chủ động tham mưu cho cấp ủy tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng, các lớp chuyên đề; các hội nghị với nhiều nội dung phong phú, thiết thực, bám sát với tình hình địa phương; các lớp phối hợp với Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể, ban, phòng, cơ quan trên địa bàn.
     Để nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên lý luận chính trị, tăng cường hoạt động nghiên cứu khoa học, tổng kết thực tiễn, hằng năm Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy đã tổ chức thao giảng giảng viên lý luận chính trị. Công tác thao giảng giảng viên lý luận chính trị, không chỉ giúp cấp ủy các cấp nhận thức đầy đủ hơn về vị trí, vai trò của Trung tâm chính trị mà còn tạo điều kiện thuận lợi để tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, hỗ trợ Trung tâm thực hiện tốt hơn chức năng, nhiệm vụ được giao.
Bảng 2: Thống kê đội ngũ cán bộ, giảng viên trung tâm chính trị cấp huyện ở tỉnh Thanh Hóa (Đến ngày 30/4/2025)
Tổng số Cơ cấu Trình độ
Phó Giám đốc Giảng viên Chuyên môn nghiệp vụ Lý luận chính trị
Đại học Thạc sĩ Tiến sĩ Trung cấp Cao cấp
72 26 46 44 28 0 30 42
       Nguồn: Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Thanh Hóa
     Từ bảng thống kê cho thấy, 100% giảng viên chuyên trách được đào tạo bài bản và trình độ đạt chuẩn theo yêu cầu về trình độ chuyên môn nghiệp vụ và lý luận chính trị. Đội ngũ giảng viên tại các trung tâm chính trị đủ năng lực để có thể giải thích cho học viên một cách cơ bản, đầy đủ về vấn đề lý luận gắn thới thực tiễn địa phương, đơn vị trên địa bàn. Đồng thời, có thể hướng dẫn cho học viên tiếp cận với cách tư duy mới, phương thức vận dụng vào thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, điều hành quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở cơ sở nơi công tác.
     Đội ngũ giảng viên là người được thường xuyên tiếp cận các văn bản về nhận diện, đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc, các quan điểm sai trái về quyền con người, trong đó có quyền tự do ngôn luận; thường xuyên tham gia các buổi sinh hoạt chuyên đề, học tập nghị quyết, tham gia phản biện xã hội, các kỳ báo cáo viên cấp tỉnh, cấp huyện; thực tiễn kiểm điểm; trực tiếp tham gia các hoạt động nghiên cứu khoa học, tổng kết thực tiễn về xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị ở địa phương. Từ nền tảng kiến thức đó, giảng viên kịp thời chia sẻ những thông tin đúng, chính thống của Đảng, Nhà nước một cách khoa học, hiệu quả tới học viên và nhân dân.
     Thông qua bài giảng, giảng viên tuyên truyền, giảng giải, phân tích cho học viên, giúp họ nhận thức về trách nhiệm của bản thân đối với xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, để “tự đề kháng” đấu tranh những thông tin xấu, độc, nhận diện những phát ngôn đúng - sai, giúp học viên hình thành niềm tin khoa học, từng bước tạo lập, rèn luyện củng cố phẩm chất và năng lực chính trị, bồi đắp kỹ năng nhìn nhận, đánh giá khi tiếp nhận các thông tin đa chiều.
     Trong giai đoạn bùng nổ công nghệ thông tin, mạng xã hội như hiện nay, việc nhận diện và đấu tranh có hiệu quả với các hoạt động chống phá của các thế lực thù địch và các hành vi vi phạm pháp luật trên Internet, mạng xã hội, chúng kích động, chia rẽ bằng cách đăng tải, phát tán thông tin sai sự thật. Đây là cuộc chiến đầy khó khăn, thách thức đối với cả hệ thống chính trị, trong đó có đội ngũ giảng viên lý luận chính trị. Trong tình hình đó, giảng viên là “tai, mắt” trên không gian mạng, nắm bắt thông tin, dư luận của người thân, bạn bè, đồng nghiệp và xã hội để điều chỉnh, chia sẻ, đấu tranh, phản biện.
     Tuy nhiên, so với mục tiêu, yêu cầu trong học tập lý luận chính trị cũng như trong phản bác các quan điểm sai trái về quyền con người trong đó có quyền tự do ngôn luận. Đội ngũ giảng viên, nhất là giảng viên kiêm nhiệm tại các trung tâm chính trị trên địa bàn tỉnh vẫn còn một số tồn tại, hạn chế trong việc thiết kế bài giảng điện tử; chưa tích cực trong hoạt động nghiên cứu khoa học, tổng kết thực tiễn; tham gia viết bài không thường xuyên, thậm chí có giảng viên cả một nhiệm kỳ không có một bài viết hay một sản phẩm khoa học. Vì vậy chưa phát huy được tính chiến đấu, phản biện, dù có phản biện cũng không đủ sức thuyết phục.
     Nguyên nhân của hạn chế là đội ngũ giảng viên không được giảng bài thường xuyên, liên tục nên kiến thức tin học không được sử dụng nhiều, khó khăn trong việc thiết kế giáo án điện tử; do đội ngũ giảng viên không tham gia viết bài thường xuyên nên kỹ năng trong phản biện, đấu tranh, phê phán những phát ngôn bóp méo sự thật, thông tin xấu, độc còn hạn chế; hầu hết ngân sách tại các trung tâm chính trị còn khó khăn nên chế độ khen thưởng chưa kịp thời.
     2.4. Một số giải pháp nâng cao chất lượng giảng viên ở các trung tâm chính trị tỉnh Thanh Hóa trong việc đấu tranh, phản bác các luận điệu xuyên tạc, thù địch về quyền tự do ngôn luận
     Trên cơ sở đánh giá những kết quả đã đạt được, những tồn tại, hạn chế, đặc biệt là từ việc chỉ ra nguyên nhân của những hạn chế đó, trong thời gian tới, để nâng cao vai trò, trách nhiệm của đội ngũ giảng viên trong việc đấu tranh bảo vệ quyền con người, trong đó có quyền tự do ngôn luận, cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau:
     Một là, đội ngũ giảng viên phải luôn tôi luyện bản lĩnh chính trị, đạo đức cách mạng, gương mẫu trong thực thi đường lối, chuẩn mực phát ngôn ở mọi lúc, mọi nơi, đặc biệt là trong bài giảng. Bởi vì mọi cử chỉ, hành động, lời nói của giảng viên ảnh hưởng rất lớn đến nhận thức của học viên.
     Hai là, giảng viên phải được trang bị kiến thức vững vàng, sâu rộng, phong phú, để có năng lực, trình độ khiến học viên nể phục từ đó mới yên tâm nghe theo, làm theo. Cung cấp cho học viên nắm được nội dung cần chia sẻ để từ đó họ mới có thể sàng lọc được thông tin, nhận diện thấu đáo những thông tin đúng, thông tin sai, đưa ra những chứng cứ, lập luận sắc bén từng bước đấu tranh, phê phán những phát ngôn đi ngược với chủ trương, đường lối, đạo lý, thuần phong mỹ tục.
     Ba là, đội ngũ giảng viên tự rèn luyện kỹ năng sư phạm cho mình. Nếu như thực hiện kỹ năng này tốt sẽ góp phần cho sự thành công của bài giảng. Muốn vậy, giảng viên phải sử dụng một cách linh hoạt ngôn ngữ hình thể kết hợp nhuần nhuyễn với các phương pháp dạy học để phát huy được tính tích cực chủ động của học viên. Một khi kỹ năng này được trau dồi giúp học viên chuẩn mực về phát ngôn, chuẩn mực văn hóa phát ngôn khi tham gia mạng xã hội để tránh tình trạng phát ngôn tùy tiện, bày tỏ quan điểm phiến diện trên mạng xã hội. Khi phát ngôn phải tôn trọng giá trị văn hóa và sự khác biệt, không ngắt lời học viên trong lúc phát biểu khi chưa thực sự cần thiết. Giảng viên tôn trọng những đóng góp ý kiến của học viên trong xây dựng bài và quản lý lớp học.
     Bốn là, tập trung nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh với các quan điểm thù địch. Giảng viên là người có trách nhiệm định hướng tư tưởng cho học viên, tích cực tham gia đấu tranh trên mạng xã hội. Họ là người ít nhiều có tầm ảnh hưởng, có lực lượng học viên hùng hậu, có điều kiện để chia sẻ những thông tin có ý nghĩa; có năng lực, kiến thức nhận diện, phản bác, ngăn chặn các thông tin, phát ngôn sai sự thật, vu khống của các tổ chức, cá nhân thù địch.
     Năm là, tổ chức thực hiện có hiệu quả Kết luận số 01-KL/TW của Bộ Chính trị về “tiếp tục thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW, ngày 15/5/2016 về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” theo chủ đề của năm 2025 đó là Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh”.
Bảy là, Ban Tuyên giáo Trung ương sớm ban hành quy chế phối hợp giữa Trung tâm chính trị với Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, các ban, phòng cùng cấp trong công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị và chuyên môn nghiệp vụ để thực hiện đồng bộ, thống nhất. Ban hành Quy định Trung tâm chính trị chuẩn để áp dụng thống nhất trong cả nước.
     Sáu là, tăng cường tập huấn, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên nhằm nâng cao chuyên môn nghiệp vụ, tập huấn kỹ năng viết bài chính luận để tích cực hơn nữa trong việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
     III. KẾT LUẬN
     Tự do ngôn luận là vấn đề được nhiều quốc gia tiếp cận và nhìn nhận dưới những góc độ khác nhau, tùy theo mục đích và bối cảnh cụ thể. Với cách nhìn khách quan, khoa học và thực tiễn, nội dung tác giả đề cập nhằm giúp người đọc có cái nhìn đúng mực, phù hợp về quyền tự do ngôn luận tại Việt Nam. Bản thân tôi tin rằng, mỗi công dân Việt Nam yêu nước đều mang trong mình khát vọng nhiệt thành về một đất nước cường thịnh, dân tộc trường tồn và phát triển bền vững. Để đạt được những mục tiêu đã đề ra, trước hết mỗi công dân, đặc biệt là đội ngũ giảng viên lý luận chính trị, lực lượng nòng cốt, xung kích cần nhận thức đúng quyền, nghĩa vụ và nâng cao tinh thần, trách nhiệm để bảo vệ quyền con người, trong đó có quyền tự do ngôn luận. Bởi thực hiện được quyền này, bản thân nó có thể tạo ra siêu kết nối tri thức và cảm xúc cộng đồng, tạo niềm tin, sức mạnh mềm cho sự phát triển bền vững đất nước, sẵn sàng đưa nước ta bước vào “kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam”.

     Tài liệu tham khảo
1. Báo cáo số 350-BC/BTGTU ngày 29/11/2024 của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Thanh Hóa về Báo cáo Kết quả công tác lý luận chính trị, lịch sử Đảng năm 2024, phương hướng, nhiệm vụ năm 2025.
2. Droits De L’home và Humam Rights (1998), Quyền con người - các văn kiện quan trọng của Droits De L’homme và Humam Rights, Tuyên ngôn toàn thế giới về Nhân Quyền (UDHR - LHQ 10/12/1948), Viện Thông tin khoa học xã hội Hà Nội, tr.152, 114.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 239.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2014), Nghị quyết số 32-NQ/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo, quản lý, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, ngày 26/5/2014.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Nghị quyết số 04-NQ/TW Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2018), Nghị quyết số 35-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa XII và định hướng trong Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng để tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết và thường xuyên đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, ngày 22/10/2018.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2022), Quy định số 57-QĐ/TW của Ban Bí thư về đối tượng, tiêu chuẩn và phân cấp đào tạo lý luận chính trị, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, ngày 8/2/2022.
8. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia sự thật, Hà Nội.
 
[1]Droits De L’home và Humam Rights (1998), Quyền con người - các văn kiện quan trọng của Droits De L’homme và Humam Rights, Tuyên ngôn toàn thế giới về Nhân Quyền (UDHR - LHQ 10/12/1948), Viện Thông tin khoa học xã hội Hà Nội, tr.152, 114.
[2]Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 239.

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây